Mọi tổ chức đều vận động dựa trên thông tin. Theo đó, những con người hay nhóm – thành phần cấu tạo tổ chức – đảm đương những nhiệm vụ cụ thể luôn luôn giao tiếp với nhau, thông tin cho nhau để tương tác giữa bộ phận này với bộ phận khác, người này với người khác… Chỉ như thế, tổ chức mới có thể tồn tại và phát triển.
Trong khi đó, tổ chức lại xuất hiện từ xa xưa, trước CNTT rất lâu. Và từ thời xa xưa ấy, bản chất trên đã tồn tại và sẽ tồn tại mãi mãi cùng với xã hội loài người. Vì thế, việc mô hình hóa tổ chức luôn luôn dẫn đến bộ đôi: Mô hình tổ chức (tổ chức được cấu trúc như thế nào?) và mô hình thông tin (hệ thống thông tin bên trong tổ chức được xây dựng và vận hành như thế nào?).
Mọi chuyện thay đổi khi CNTT ra đời và mở ra những viễn cảnh mới, mang đến cho tổ chức phương tiện xử lý thông tin với tốc độ rất cao, lưu trữ thông tin với khối lượng rất lớn và truyền thông tin gần như tức thì và không giới hạn về khoảng cách. Những ưu việt đó vượt xa khả năng làm việc thủ công. Chúng giúp con người thực hiện những điều mà trong thế giới thủ công chỉ là mơ ước, với các ứng dụng ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp dựa trên những nền tảng công nghệ ngày một phát triển. Vì thế, nghiên cứu ứng dụng CNTT trong một tổ chức luôn dẫn đến mô hình ứng dụng (application model - tổ chức sẽ hoạt động như thế nào trong môi trường CNTT) và mô hình công nghệ (technology model - các ứng dụng được phát triển trên nền công nghệ nào).
Tổ chức là một thực thể thống nhất, nên mọi sự thay đổi ở một thành phần bên trong luôn luôn kéo theo sự thay đổi ở tất cả các thành phần còn lại. Khi CNTT xâm nhập vào tổ chức, làm thay đổi cách thức con người hoạt động thông tin bên trong tổ chức, kéo theo thay đổi cả về mô hình tổ chức lẫn mô hình thông tin. Nói theo ngôn ngữ quản lý, việc ứng dụng CNTT (hay điện tử hóa) chắc chắn làm thay đổi các quy trình làm việc thủ công (cải cách hành chính) theo hướng tạo điều kiện tốt nhất cho CNTT phát huy những năng lực phục vụ phù hợp với khả năng tiếp thu và phát triển của tổ chức.
Tổng hợp những ý trên dẫn chúng ta đến 4 hợp phần mà tất cả các phương pháp luận về CPĐT đều thống nhất lựa chọn là: Mô hình tổ chức + Mô hình thông tin (được xây dựng trên nền móng của chiến lược CPĐT về tổ chức); Mô hình ứng dụng + Mô hình công nghệ (được xây dựng trên nền móng của chiến lược CPĐT về CNTT).
Khung kiến trúc tổng thể
Kiến trúc của một tổ chức là một tập hợp các mô hình được dùng làm cơ sở để phân tích, giúp các nhà quản lý quyết định thực hiện những thay đổi cần thiết để đạt được mục đích và mục tiêu của tổ chức đó. Các mô hình này thực hiện vai trò giống như các bản kế hoạch chi tiết hướng dẫn và phối hợp nỗ lực của các bộ phận liên quan trong việc xây dựng mới hoặc thay đổi một tổ chức hiện tại.
Thực tiễn cho thấy trong những tổ chức lớn, các mô hình tổ chức tại những bộ phận khác nhau thường được xây dựng bởi các nhóm khác nhau. Các nhóm này thường có xu hướng tạo ra những sản phẩm kiến trúc chỉ đáp ứng yêu cầu của riêng chứ không thể áp dụng ở nơi khác, còn nếu muốn áp dụng thì phải hiệu chỉnh rất nhiều. Vì thế, khi một tổ chức muốn chuẩn hóa kết quả làm việc của tất cả các nhóm vào kiến trúc tổng thể thì biện pháp đầu tiên là thiết lập một khung kiến trúc tổng thể chung (EA).
Khó có thể xây dựng một khung EA duy nhất chung cho tất cả mọi trường hợp do sự khác nhau về lĩnh vực , trình độ quản lý, nguồn nhân lực, khả năng đầu tư, trang bị, cơ chế vận động… Từ đây, xuất hiện những cách tiếp cận khác nhau về xây dựng khung EA cho những lớp tổ chức khác nhau.
Người ta ghi nhận có 5 phương pháp được áp dụng nhiều nhất và được xem là có ảnh hưởng nhất:
• TOGAF (The Open Group Architecture Framework - Khung kiến trúc nhóm mở)
• The Zachman Framework (Khung Zachman)
• FEAF (Federal Enterprise Architecture Framework - Khung kiến trúc tổng thể kiểu liên bang)
• MDA (Model Driven Architecture - Kiến trúc được điều khiển bởi mô hình)
• EUP (Enterprise Unified Process - Quy trình hợp nhất tổ chức).
Mỗi phương pháp đưa ra một khung (framework) gồm nhiều mô hình con phân tích các khía cạnh khác nhau của kiến trúc cho một lớp tổ chức phù hợp. Trong số đó, theo ý kiến cá nhân, FEAF là phương pháp có cách diễn đạt sáng sủa và dễ hiểu hơn cả.
FEAF đặt tất cả các quy trình phát triển, từ kiến trúc nghiệp vụ, kiến trúc dữ liệu, kiến trúc ứng dụng và kiến trúc công nghệ hiện thời thông qua các mô hình kiến trúc và các quá trình chuyển đổi, chuẩn hóa để đạt tới kiến trúc nghiệp vụ, kiến trúc dữ liệu, kiến trúc ứng dụng và kiến trúc công nghệ tương lai trong một khung tổng thể thống nhất.
FEAF được sử dụng nhiều trong các tổ chức có trình độ phát triển tương đối cao, nơi hiện hữu môi trường ứng dụng tương đối đồng nhất. Nếu khởi đầu từ một môi trường ứng dụng không đồng nhất (có những ứng dụng được phát triển ở các cấp độ khác nhau trong cùng một tổ chức như thường thấy ở nước ta) thì TOGAF là phương pháp được xem là phù hợp.
TOGAF dựng lên một khung kiến trúc tổng thể gồm phần lõi và các thành phần mở rộng. Khung kiến trúc tổng thể lõi bao gồm:
• Kiến trúc nghiệp vụ: Mô tả các mục tiêu hoạt động, các hoạt động, các quy trình nghiệp vụ…
• Kiến trúc dữ liệu: Xác định các quan hệ giữa các tập hợp dữ liệu, các quy trình nghiệp vụ và dữ liệu
• Kiến trúc ứng dụng: Xác định mô hình ứng dụng, giao diện người – máy, cơ chế xử lý, các quy tắc nghiệp vụ
• Kiến trúc kỹ thuật: Thể hiện các mô hình dữ liệu vật lý, thiết kế hệ thống kỹ thuật, công nghệ và các cơ chế trình diễn, thiết kế các thủ tục và cơ chế kiểm soát.
Các thành phần mở rộng gồm:
• Các tiêu chuẩn, chính sách: Xác định các tiêu chuẩn, đề xuất các chính sách cho từng bộ phận cấu thành
• Kiến trúc an ninh: Xác định các yêu cầu và giải pháp về an ninh cho toàn bộ tổ chức, đặc biệt là an ninh dữ liệu
• Kiến trúc dịch vụ: Xác định cách thức cung cấp dịch vụ của tổ chức.
Đến tháng 11/2010, trong cả nước chỉ có TP.Đà Nẵng là đã xây dựng hoàn chỉnh kiến trúc tổng thể CPĐT (Kết quả của dự án CNTT-TT TP.Đà Nẵng). Khung kiến trúc tổng thể được đề xuất cho TP.Đà Nẵng có các thành phần được mô tả trong hình.