Thứ năm, 28/11/2024

Tìm kiếm

Giới thiệu chung
Đại hội VAIP IX
Hoạt động hội
Tin tức ICT
Môi trường - Chính sách
Doanh nghiệp - Hội viên
Sản phẩm - Công nghệ
Giao thương
Nguồn lực cho CNTT
Phần mềm nguồn mở
Xã hội ICT
Gặp gỡ ICT đầu xuân
Hội thảo HT-PT
ICT Caravan 2023
Lịch sử tin học Việt Nam
Chương trình hành động
Hội viên
ICT Tennis
Kỷ yếu 30 năm OLP
Liên hệ
  Cập nhật: 28/06/2010
"VN rất nhiều thuận lợi để phát triển giáo dục điện tử"

Từ phải sang: Tiến sĩ Lê Trường Tùng, tiến sĩ Quách Tuấn Ngọc và BTV Tuyết Nhung của Kênh VTC2 Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC. (Ảnh: Phạm Thịnh-VTC).

Đó là nhận định của TS Quách Tuấn Ngọc trong buổi đối thoại sáng nay với VTC2, VTC News, VietNamNet, VnMedia và một số trang tin điện tử.

 

 Bắt đầu từ 9h sáng nay (27/6), Đài truyền hình Kỹ thuật số VTC phối hợp với VTC News và nhiều báo, trang tin điện tử khác đã tổ chức buổi đối thoại với chủ đề: "Công nghệ thông tin và câu chuyện rút ngắn khoảng cách giáo dục".

Buổi đối thoại vừa được tường thuật trực tiếp trên Kênh VTC2 và Kênh truyền hình độ nét cao VTC HD9; vừa tiến hành trực tuyến trên báo điện tử VTC News, VietNamNet, VnMedia, các trang tin điện tử ICT News của Báo Bưu điện Việt Nam, Trang tin điện tử MIC của Bộ TT&TT.

Qua trò chuyện với 2 vị khách mời là Tiến sĩ Quách Tuấn Ngọc (Cục trưởng Cục CNTT, Bộ Giáo dục & Đào tạo) và Tiến sĩ Lê Trường Tùng (Hiệu trưởng Đại học FPT), độc giả sẽ có được những lời giải đáp thiết thực cho việc giáo dục con, em mình thông qua CNTT. Đã bao giờ bạn nghĩ rằng có thể tích hợp việc dạy và học vào Game Online cho con, em mình thay vì "cấm tiệt" (và thực tế là không cấm được) con, em chơi hay không? Bạn có tin gia đình và nhà trường sẽ thiết lập được một cầu nối thông tin "nhanh như điện" để cùng nhau giáo dục, định hướng cho con, em mình chuẩn bị bước vào cuộc sống?

Ở phạm vi rộng lớn hơn, qua buổi đối thoại này, độc giả sẽ cùng các khách mời bàn luận làm thế nào để đưa CNTT đến những trường học, những cơ sở đào tạo... ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa của đất nước? Làm thế nào để CNTT phát huy hiệu quả tối đa trong việc nâng cao trình độ, nhận thức của giáo viên, học sinh tiến tới dần thu hẹp khoảng cách giáo dục giữa thành thị với nông thôn, vùng sâu, vùng xa? Làm thế nào để Việt Nam thực sự có một nền giáo dục điện tử? v.v.

Nội dung buổi đối thoại

- Thưa ông, những ngày gần đây, một số trang mạng điện tử có đưa tin về việc từ tháng 7/2010, tức là chỉ một vài ngày nữa thôi, toàn ngành giáo dục sẽ kết nối internet. Thông tin này có đúng không thưa ông, bởi theo chúng tôi được biết thì dự kiến là phải tới tháng 9 hoặc cuối năm nay thì dự án này mới có thể cán đích? (Câu hỏi của anh Nguyễn Xuân Tân, một cán bộ công tác trong ngành giáo dục tại Hòa Bình).

TS Quách Tuấn Ngọc: Tôi xin nói chính xác, đến tháng 12/2010, chúng ta mới kết thúc dự án kết nối Internet trong toàn ngành giáo dục. Tuy nhiên, trên thực tế với sự hỗ trợ của Viettel chúng ta đang nỗ lực hoàn thành. Trong tháng 6, Viettel đã triển khai mua thiết bị kết nối 3G cho các điểm vùng sâu, vùng xa. Tuy nhiên, vì đang trong dịp tuyển sinh ĐH, CĐ và học sinh đang nghỉ hè nên các trường phải cử người trực để kết hợp với Viettel triển khai lắp đặt thiết bị.

Thiết bị 3G này không giống như thiết bị bán trên thị trường cho người tiêu dùng mà được thiết kế có nhiều điểm kết nối để dùng cả Wifi. Bên đối tác còn phải tính toán lắp đặt sao cho sóng tại điểm được kết nói phải mạnh nhất. Dự kiến, tháng 9 sẽ hoàn thành toàn bộ việc kết nối Internet tới tất cả các điểm trường kể cả vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.
- Vậy xin hỏi, việc toàn ngành giáo dục kết nối internet có đồng nghĩa với việc bài toán thu hẹp khoảng cách giáo dục tại Việt Nam đã có lời giải không, thưa ông?

TS Quách Tuấn Ngọc: Có thể nói rằng ý nghĩa của mạng giáo dục rất lớn. Chúng ta biết ở các điểm trường vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, việc tiếp cận với kiến thức mới đặc biệt là tiếp cận với CNTT là rất khó khăn. Bởi vậy, việc đưa kiến thực hiện đại hay nói như ngôn ngữ bình thường là xóa bỏ khoảng cách số thì truyền hình và phát thanh không làm được nhưng Internet làm được. Tôi ví dụ, hôm nay không phải chúng đang giao lưu mà chúng ta đang giảng bài chẳng hạn, thì bài giảng này có thể truyền trực tiếp đến các điểm trường trên cả nước qua hệ thống Internet. Và ở Hà Nội đang tham dự gì và nói những gì thì ở những điểm đó học cũng có thể nói như vậy.

- Tôi được biết Đại học FPT là môi trường ứng dụng công nghệ trong đào tạo và học tập khá tốt. Nhưng không biết anh Tùng có công nhận là làm được điều này thì một phần quan trọng là vì anh đang là hiệu trưởng của trường FPT – một trường tư thục thuộc sở hữu của một Tập đoàn công nghệ lớn hay không? Cứ giả sử như anh ở địa vị của tôi, hiệu trưởng của một trường phổ thông ở Lào Cai – nơi mà cả giáo viên lẫn học sinh đều rất mù mờ về CNTT thì liệu anh có làm được những điều giống như Đại học FPT đã làm? (độc giả có email nguyenvietdung68@gmail.com)

TS Lê Trường Tùng: Việc triển khai CNTT không phải dễ. Thực ra, việc triển khai CNTT ở FPT không phải là dễ, trường cũng từng đặt ra mục tiêu toàn bộ sinh viên của trường có laptop để sử dụng nhưng vẫn chưa hình dung được ngày nào điều đó sẽ thành hiện thực. Đến năm 2008 đã triển khai cho cả sinh viên và giảng viên. Nhưng việc có máy tính cho giảng viên, sinh viên chỉ là bề nổi, cái quan trọng nhất đó là đưa CNTT phát huy hiệu quả trong ứng dụng CNTT của trường.

Đối với Lào Cai không phải là một nơi quá xa xôi, lạc hậu trong ứng dụng CNTT. Chẳng hạn như, tỷ lệ các trường ứng dụng CNTT đối với tiểu học là 6%, THCS là 10% nhưng THPT đã phủ hết. Tuy nhiên, việc ngay chính vị hiệu trưởng này chưa dùng địa chỉ email của Bộ GD-ĐT cấp cũng là một trở ngại cho việc phát triển ứng dụng CNTT trong ngành giáo dục.
- Một vấn đề lớn trong việc phát huy hiệu quả của ứng dụng CNTT trong vấn đề thu hẹp khoảng cách giáo dục, đó là vấn đề về nhận thức. Thưa tiến sĩ Quách Tuấn Ngọc, việc thay đổi nhận thức của người dạy và người học đặc biệt là ở vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa có khó không, thưa ông?

TS Quách Tuấn Ngọc: Vấn đề nhận thức từ 10 năm nay chúng tôi luôn đặt lên hàng đầu, vừa dễ lại vừa khó. Dễ ở chỗ không mất gì, khó ở chỗ thay đổi. Nhận thức không phụ thuộc vào địa bàn, không phụ thuộc khoảng cách. Chỉ ở những nơi nào lãnh đạo thực sự quan tâm đến việc nâng cao nhận thức của cán bộ thì tôi tin nơi đó sẽ làm được.

- Còn tiến sĩ Lê Trường Tùng, ông nghĩ sao về vấn đề này?

Tiến sĩ Lê Trường Tùng: Tôi cũng đồng tình với quan điểm của anh Quách Tuấn Ngọc. Tôi nghĩ sự thành công ở từng trường phụ thuộc rất nhiều vào người đứng đầu, ở đây là hiệu trưởng. Trường nào hiệu trưởng quyết tâm, làm tốt mục tiêu đó trong nhiệm kỳ của mình chứ không để tình trạng "đầu to đuôi nhỏ" thì sẽ thành công.

- Con tôi là học sinh lớp 12. Tôi thấy cháu có nói là Bộ và Sở sẽ lập cho các học sinh thuộc khối lớp 12 mỗi em một email riêng phục vụ học tập. Tôi nghĩ, đây là một ý tưởng rất hay nhưng cũng không phải không có vấn đề vì thực tế tôi thấy con tôi chẳng mấy khi dùng đến hòm thư đó mà chủ yếu là dùng hòm thư Yahoo hoặc vào mạng Chat với bạn bè. Vậy thì, phải chăng việc lập email cho các học sinh sẽ chỉ mang tính hình thức? (câu hỏi của một độc giả ở Tam Nông, Phú Thọ)

TS Quách Tuấn Ngọc: Tôi xin giải thích, trong hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ đầu năm học, Bộ có chỉ đạo Sở thiết lập email cho tất cả các giáo viên và học sinh lớp 12 dùng cho mục đích thi cử. Việc này cũng đã được phía đối tác hỏi chúng tôi về hiệu quả sử dụng, tôi giải thích với phía bạn: Đây như một thói quen giống như ở nhà bố mẹ gọi con bằng tên gọi thân mật. Sử dụng email của nick chat nó như thói quen của cả người lớn và giới trẻ ở Việt Nam. Do đó, chúng ta bảo các em sử dụng một email mang tính nghiêm túc sẽ cần thời gian để các em thích nghi và thiết lập thói quen mới.

Tôi đưa ra ở đây một ví dụ như Sở GD&ĐT Hậu giang là một Sở khó khăn nhưng một lúc Sở Hậu Giang đã thiết lập hơn 60 ngàn account cho học sinh và giáo viên. Đây có thể nói là một việc làm rất tích cực và thể hiện tinh thần có trách nhiệm của lãnh đạo Sở. Tuy nhiên, việc dùng email vào trao đổi công việc, bài vở giữa giáo viên và học sinh còn phụ thuộc vào ý thức của họ. Cũng Sở đấy, trường đấy khi có email có thể sử dụng để truyền tải thông tin số hóa giáo dục không còn là vấn đề phải bàn.

- Nhận thức và kỹ năng CNTT của các nhà quản lý giáo dục, các giáo viên, học sinh là điều mà chúng ta đang bàn đến. Đó cũng là những yếu tố quan trọng trong việc đi tìm lời giải cho bài toán thu hẹp khoảng cách giáo dục tại Việt Nam. Xin hỏi Tiến sĩ Lê Trường Tùng, Đại học FPT của ông làm thế nào để các giảng viên và sinh viên hứng thú với những ứng dụng công nghệ phục vụ việc dạy và học? Nói cách khác, FPT làm thế nào để ứng dụng CNTT trong giáo dục không còn mang tính hình thức? (câu hỏi của độc giả Lê Hoài Nam ở địa chỉ email lehoainam77@yahoo.com)

TS Lê Trường Tùng: Để đưa CNTT vào các trường hiệu quả, việc đầu tiên không phải hạ tầng mà là nội dung, hạ tầng là yếu tố thứ hai, và yếu tố kết nối CNTT là thứ ba. Việc kết nối CNTT tại các trường hiện đang có vấn đề, các trường sau khi trang bị vẫn không được kết nối. Phần nội dung là quan trọng nhất và FPT cũng hết sức chú trọng vấn đề này.

Kinh nghiệm của chúng tôi là, khi triển khai phải xác định được lợi ích cho sinh viên là gì. Tương tự trong trường phổ thông thì khi triển khai cũng cần xác định lơi ích cụ thể cho học sinh. Trong FPT, CNTT là công cụ không thể thiếu không phụ thuộc vào nhận thức của thầ y và trò mà là khâu bắt buộc.
 
- “Tôi có một cậu bạn đang ở cùng ký túc xá trên Hà Nội. Bố cậu ta làm Hiệu trưởng một trường phổ thông ở Điện Biên. Một lần cậu ta khoe với tôi là vừa sắm laptop mới và USB kết nối internet miễn phí. Hỏi ra mới biết, đó là laptop và USB mà trường của bố cậu ấy cấp cho một số giáo viên. Vì bố cậu ấy không quen dùng nên ông ta cho cậu con trai của mình. Tôi muốn hỏi là, Nếu giáo viên nào cũng có máy tính, có USB truy cập internet mà lại không quen dùng rồi sau đó đem cho người khác thì hiệu quả từ ứng dụng CNTT trong giáo dục có lẽ chỉ là con số 0. Các ông đã tính đến chuyện này hay chưa? (Độc giả Lê Thanh Tú ở Đại học Giao thông vận tải Hà Nội)
 
TS Quách Tuấn Ngọc: Sau khi xem phóng sự, cá nhân tôi chẳng vui tí nào. Nhưng sự việc này xảy ra ở nhiều nơi. Chúng ta đã biết ngay từ đầu đây là câu hỏi về nhận thức. Nếu Sở, trường được trang bị ngay từ đầu mà không sử dụng thì lỗi tại chính trường chứ không thể đổ cho ai. Khi nhà trường không được trang bị thì kêu với Bộ là chúng tôi thiếu trang thiết bị, nhưng đến khi cấp cho rồi không đưa vào sử dụng cho mục đích chung mà sử dụng cá nhân như trường hợp ở trên thì không nên cấp thiết bị cho các trường như thế. Ở nơi nào hiệu trưởng thực sự quan tâm sử dụng vào công việc và huy động giáo viên sử dụng vào công việc là thành công còn không đạt được mục tiêu như vậy là chương trình triển khai thất bại.
 
Khi triển khai mạng giáo dục, Bộ đã có chỉ thị hướng dẫn triển khai, trong đó có nêu rõ không cần nhất thiết phải hợp tác với Viettel. Bởi ở những nơi nào Viettel không nối được, chúng tôi cho phép đơn vị đó được chủ động liên hệ với các đơn vị viễn thông khác như VNPT, FPT..
 
Quay lại câu hỏi, tôi cho rằng ở nơi nào không có điểm kết nối, chúng ta phải đi tìm. Trường nào nối được với nhiều doanh nghiệp, chúng tôi ủng hộ và rất mừng vì như vậy khả năng kết nối sẽ cao hơn. Quan điểm của Bộ GD&ĐT là dịch vụ của nhà cung cấp nào tốt chúng tôi dùng.
 
Việc sử dụng máy tính trong trường học quan điểm của Bộ khuyến khích giáo viên sử dụng CNTT vào chính các môn học, bài giảng của mình. Tránh việc tập trung máy tính lại và chờ thầy dạy tin học thì đó lại thành mô hình tin học vì tin học chứ không phải tin học vì môn học. Nếu hiệu rưởng các trường không năng động thì không triển khai tốt và không nên cấp máy tính cho các trường đó.

- Tôi thấy người ta cứ phản đối việc chơi game vì phụ huynh sợ nó ảnh hưởng không tốt tới học tập của con trẻ. Nhưng nói thật là nó thực sự rất hấp dẫn giới học sinh sinh viên. Bây giờ, ngay cả trẻ em ở các tỉnh miền núi cũng biết chơi Game Online. Vậy, tại sao chúng ta lại không đưa Game Online vào giáo dục? Vì chúng ta chưa nghĩ tới hay chúng ta không dám làm? (độc giả Đặng Hoài Thu, Gò Vấp, TP.HCM)

TS Quách Tuấn Ngọc: Game Online rõ ràng đang là vấn đề nóng bỏng được dư lụân hết sức quan tâm, từ Chính phủ, các bộ ngành cho đến toàn thể nhân dân. Game Online hiện được thiết kế rất cuốn hút, không biết thì thôi, biết rồi thì nhiều người không dứt ra được. Bạn thân tôi trước đây cũng từng chơi Game Online và nhận thấy nó rất tốn thời gian.

Theo tôi các doanh ngiệp cần có hướng để tránh có tác động tiêu cực vào đời sống. Cần hạn chế các game bạo lực, hướng vào những nôi dung giáo dục, như cuộc thi giải toán online mới đây đã thu hút hàng ngàn học sinh tham gia. Các doanh nghiệp không thể chỉ lo kiếm tiền mà còn phải lo đầu tư phát triển những nội dung lành mạnh.

Tôi nghĩ vấn đề cần quản lý ở đây chính là nội dung game sao cho lành mạnh và cuốn hút. VTC đang triển khai học tiếng Anh online thì thì đó là định hướng đúng, nội dung tốt. Bộ GD&ĐT luôn ủng hộ với VTC và FPT trong việc chuyển hướng game sang mang tính chất giáo dục.

 - Vâng, rõ ràng là hiểu về mặt bản chất thì Game Online chỉ là một trò chơi đơn thuần. Đứng từ góc độ giáo dục thì đây hoàn toàn có thể trở thành một công cụ góp phần thay đổi nhận thức trong việc ứng dụng CNTT vào dạy và học. Nhưng tất nhiên đó cũng chỉ là một yếu tố nhỏ nếu như chúng ta đặt trong tổng thể chiến lược xây dựng nền giáo dục điện tử tại Việt Nam. Xin được hỏi tiến sĩ Quách Tuấn Ngọc: Giáo dục điện tử là một mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia trên thế giới. Nếu xây dựng được nền giáo dục điện tử hoàn chỉnh thì khoảng cách giáo dục chắc chắn sẽ không còn là bài toán khó. Với những điều kiện ở Việt Nam, theo ông, bao giờ thì chúng ta mới có một nền giáo dục điện tử hoàn chỉnh?

Tiến sĩ Quách Tuấn Ngọc: Nói về nền giáo dục điện tử hoàn chỉnh thì tôi nghĩ không nên nói về mốc thời gian. Tôi chỉ có thể khẳng định là giáo dục điện tử đang nhận được rất nhiều thuận lợi, từ chủ trương của Nhà nước, nền tảng công nghệ, đến sự góp sức của các doanh nghiệp. Về mặt nội dung, chúng ta cũng đang có nhiều nội dung có thể chuyển hóa ngay đến các trường, từ đó khoảng cách số có thể dần dần được xóa bỏ đi.

Cách đây vài năm, đi họp quốc tế người ta nhìn Việt Nam chỉ đồng hạng với Myanma, Lào… nhưng gần đây, Việt Nam được xếp hạng trong nhóm các nước Thái Lan, Indonesia… về CNTT. Tuần vừa rồi, trong chương trình hợp tác của Bộ GD&ĐT với một đoàn khoa học Nga, chúng tôi cho biết VN sắp tới sẽ nối mạng đến các trường mầm non, phái đoàn bạn nói như thế thì tuyệt vời quá, bên họ còn chưa làm được điều đó.

Kết lại thì tôi muốn khẳng định rằng giáo dục điện tử là việc của cả xã hội chứ không phải của riêng ngành giáo dục, nhất là vai trò của các doanh nghiệp. Chẳng hạn, Viettel cung cấp là hạ tầng, VTC, FPT… làm nội dung.

Tôi nói thêm về Game Online. Game Online mà chúng ta bàn suốt trong thời gian qua thực chất chỉ là vấn đề phương tiện thôi, quan trọng nhất vẫn là nội dung Game như thế nào, thể loại Game nào tốt cần phát huy và không tốt cần hạn chế. Chúng ta phải phân loại ra, khi đó mới có nên bàn về chuyện quản lý nó như thế nào.

- Còn Tiến sĩ Lê Trường Tùng, dự đoán của ông về vấn đề này như thế nào?

TS Lê Trường Tùng: Tôi nghĩ năm 2010 chúng ta sẽ nối Internet 100% đến trường phổ thông và đó là mốc rất quan trọng. Vì khi làm được đó, Việt Nam nằm trong 150 nước trên thế giới mà 100% trường nối mạng; chúng tan sẽ xếp ngang với các nước có trình độ công nghệ cao trong khu vực như Thái Lan, Singapore… trên Phillipines, Myanmar…

Từ đó, việc triển khai các ứng dụng CNTT trong nhà trường cũng sẽ rất đơn giản, chỉ cần chúng ta có phương pháp và nội dung phù hợp. Từ đó, khoảng các giáo dục giữa các địa phương có điều kiện và khó khăn sẽ được rút ngắn.

Nhưng dù thế nào thì hạ tầng chỉ là điều kiện thôi, còn việc xã hội hóa vẫn là quyết định. Ví dụ như việc ĐH FPT “laptop hóa” cho sinh viên mà tôi đã nói, vấn đề không phải là tiền mà là nhận thức, phương pháp. Chúng tôi thấy rằng ban ngày SV đi học máy tính để nhà bỏ không, tối về máy tính ở trường bỏ không. Từ đó, ĐH FPT thay đổi cách đầu tư, đáng lẽ đầu tư máy ở trường thì dùng tiền đó hỗ trợ cho sinh viên để mua laptop, trường đầu tư thêm hạ tầng mạng, và sinh viên chỉ việc được sử dụng các tiện ích, nội dung để học tập.

- Tôi được biết hiện nay Cục CNTT Bộ Giáo dục có một số phần mềm hỗ trợ việc quản lý học sinh, giáo viên ... Xin thày cho chúng tôi biết rõ hơn về ứng dụng của phần mềm này, chúng tôi có thể mua hay tự download ở đâu? Phạm vi ứng dụng cho loại trường nào (Tiểu học, trung Học hay PTTH)? (Dương Quảng Hàn, 35 tuổi, Hà Nội)

TS Quách Tuấn Ngọc: Phần mềm này chúng tôi cung cấp miễn phí. Đây là phiên bản cũ vẫn dùng tốt nhưng điểm yếu của phiên bản này là trường nào biết trường đấy. Chúng tôi đang phối hợp với Viettel xây dựng với phần mềm đổi mới hơn để có thể liên kết tất cả các trường. Các trường có thể vào địa chỉ: http://edu.net.vn/media. Trên đây chúng tôi có đầy đủ các thông tin cần thiết liên quan đến ngành giáo dục, ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở trong nước và quốc tế. Đặc biệt tại địa chỉ này chúng tôi có nhiều phần mềm quản lý, giảng dạy thiết thực cho các trường.

- Xin hỏi tiến sĩ Lê Trường Tùng, hiện trường FPT đào tạo sinh viên CNTT có theo quy chuẩn nào không hay chỉ đào tạo theo nhu cầu liên kết với doanh nghiệp. Những tấm bằng tốt nghiệp của sinh viên FPT ra trường liệu có được thế giới nhìn nhận khi họ ra nước ngoài xin việc (Lê Vân, Tạ Quang Bửu, Hà Nội)

TS Lê Trường Tùng: Câu hỏi này rất xác đáng vì liên quan tới quản lý trường đại. Bộ GD-ĐT cho các trường đại học quyền tự chủ nên các trường có thể có các chương trình giảng dạy riêng. FPT đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế về CNTT, đó là chuẩn ACM (Đại học CNTT có chuyên ngành gì và mỗi chuyện ngành có những nội dung gì). FPT dựa theo chuẩn đó, nhưng chỉ dựa vào chuẩn không thì chưa phù hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam. Vì ở VN, ngoại ngữ rất quan trọng và FPT đưa vào như một công cụ. Đa số sinh viên ra đáp ứng nhu cầu dịch vụ CNTT nên cần tăng thêm ngoại ngữ và kỹ năng mềm. Ở nước ngoài, kỹ năng mềm dạy ở phổ thông còn VN còn khá yếu. Tiêu chuẩn quốc tế là then chốt và như thế khi trao đổi với nước ngoài, tiêu chuẩn đó sẽ là mặt bằng chung, sinh viên ra trường làm ở đâu cũng được. Do đó, ngoài chuẩn sinh viên Việt Nam cần có kỹ năng mềm…

Hiện FPT đang bị mang tiếng chương trình quá nặng do không chỉ dựa vào quốc tế mà còn cả ngoại ngữ và kỹ năng mềm. Vì vậy, đó là điều bắt buộc phải làm vì như thế mới có thể bắt kịp được các nước khác trên thế giới.

- Thưa TS Quách Tuấn Ngọc, là người nắm nhiều con số biết nói nhất trong ngành giáo dục, ngoài những con số biết nói thể hiện sự thành công của việc ứng dụng CNTT của ngành, ông có thể tiết lộ cho độc giả biết những con số biết nói ở thái cực ngược lại? (Phạm Trung Chính, 38 tuổi, Cầu Giấy, Hà Nội)

TS Quách Tuấn Ngọc: Tôi có thể nói câu hỏi này đúng. Ở các số liệu đánh giá chất lượng thi cử chúng ta có thể suy ra chất lượng giáo dục… Cục CNTT nắm nhiều số liệu và là số liệu tin cậy. Từ số liệu thi cử, ngành đã ra nhiều kết luận nóng từ năm 2002.

Đứng ở mặt tích cực, những người hoạch định chính sách giáo dục phải nhìn vào con số thực tế này để có thể hoạch định các chính sách đúng, chính sách mới phù hợp với phát triển giáo dục Việt Nam. Ví dụ cụ thể tôi có thể đưa ra ở đây về con số ở thái cực ngược lại. Tôi không đồng tình đặt chỉ tiêu 450 sinh viên/1 vạn dân. Tôi nói không nên dùng chỉ tiêu này, nếu dùng chỉ tiêu này thì giáo dục đúng như QH đánh giá chất lượng bị thả nổi.

Theo mic.gov.vn

  Trang trước    | Về đầu trang
Bình luận - Comment (FB):
tin hoc doi song
Công ty cổ phần Minh Việt
hanoi
Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam
automation
technoaid
Dự báo thời tiết
  Powered and Designed by MinhViet Technology Group
HỘI TIN HỌC VIỆT NAM
Người chịu trách nhiệm nội dung: Ông Nguyễn Long - Tổng Thư Ký - Hội Tin Học Việt Nam
Head office: 6th floor, 14 Tran Hung Dao Str., Hanoi,Vietnam - Tel:84-24-38211725 - Fax:84-24-38211708 - Email: office@vaip.vn
Copyright 2003-2006 by VAIP. All rights reserved
Designed by InteCom (MinhViet JSC) - Powered by MVC-Web CMS 2.0