Trong khó khăn đã có thuận lợi
Ngay từ khi Bộ TT-TT xây dựng dự thảo, có không ít ý kiến bày tỏ lo ngại tính khả thi của đề án. Thậm chí nhiều người còn cho rằng đề án này mang tính phiêu lưu vì kinh tế toàn cầu đang trong thời kỳ khủng hoảng đã tác động tiêu cực đến ngành viễn thông, CNTT thế giới nói chung, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó, thời gian gần đây, nhất là khi các nghiên cứu quốc tế xếp hạng CNTT công bố cho thấy, CNTT Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế, đáng tham khảo. Cụ thể: cả hai "đầu tàu" kinh tế của Việt Nam là TP Hồ Chí Minh và Hà Nội thuộc vào nhóm địa chỉ gia công phần mềm rủi ro nhất trên thế giới. Sức cạnh tranh CNTT-TT của Việt Nam bị xếp vào nhóm "giậm chân tại chỗ" như: tụt hạng về chỉ số cạnh tranh, tỷ lệ băng rộng, tỷ lệ máy tính, tiêu chí về nghiên cứu phát triển đạt rất thấp, chất lượng nguồn lực còn hạn chế...
Song, theo Bộ trưởng Bộ TT-TT Lê Doãn Hợp, sau khi nghiên cứu hiện trạng, xu hướng phát triển của viễn thông - CNTT Việt Nam trong 15 năm qua và từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy, trong 10 năm tới (2010-2020) là giai đoạn quan trọng để viễn thông - CNTT Việt Nam có những thay đổi về chất và lượng, đóng góp chung cho sự phát triển kinh tế - xã hội và sự phát triển của đất nước. Một số đánh giá của các tổ chức quốc tế cho thấy, các chỉ số về Chính phủ điện tử Việt Nam (năm 2008) tăng 15 bậc, xếp thứ 92 so với năm 2005; chỉ số sẵn sàng kết nối mạng tăng hơn 10 bậc so với xếp hạng năm 2006-2007, đứng vị trí 73/127; chỉ số phát triển hạ tầng viễn thông tăng 20 bậc so với năm 2005... Hơn nữa, trong những năm qua cả 2 lĩnh vực viễn thông và CNTT của Việt Nam đều có tốc độ tăng trưởng 20-30%/năm. Trong đó, công nghiệp phần cứng tăng 16%, công nghiệp phần mềm tăng 35%, công nghiệp nội dung số tăng 50%. Việt Nam là 1 trong 10 nước có mức phát triển CNTT - TT nhanh nhất thế giới. Tính đến hết tháng 7-2009, cả nước có 107,84 triệu thuê bao điện thoại các loại, đạt mật độ 126,3 máy/100 dân. Bên cạnh đó, trong số hơn 86 triệu dân, lượng dân số trẻ chiếm tỷ lệ khá cao và đó là những người có nhu cầu sử dụng cao dịch vụ viễn thông - CNTT và là những người ham học hỏi. Đó là cơ sở để ngành tận dụng nguồn nhân lực cũng như phát triển các dịch vụ phục vụ.
Phát triển dựa trên 4 lĩnh vực cơ bản
Bộ trưởng Lê Doãn Hợp cho biết, để đạt mục tiêu nêu trên, ngành sẽ ưu tiên phát triển dựa trên 4 lĩnh vực cơ bản gồm: hạ tầng viễn thông; ứng dụng CNTT; công nghiệp CNTT; nguồn nhân lực CNTT. Dựa trên 4 "trụ cột" này, Bộ xác định 6 mục tiêu cụ thể, trong đó có phát triển băng rộng công cộng, đưa thiết bị nghe nhìn, máy tính, internet đến các hộ gia đình; đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước; đẩy mạnh gia công phần mềm cho các tập đoàn đa quốc gia, tập trung vào những lĩnh vực công nghệ mới. Một trong những nhiệm vụ chính của đề án là nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp (DN) viễn thông - CNTT của Việt Nam gia nhập thị trường thế giới; quảng bá hình ảnh, thương hiệu CNTT Việt Nam trên thế giới, từ đó hình thành các tập đoàn quốc gia, vươn ra quốc tế. Đề án cũng đặt vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực CNTT Việt Nam, trong đó đạt 30% giảng viên CNTT có trình độ tiến sĩ vào năm 2020…
Theo Bộ trưởng, với lĩnh vực hạ tầng viễn thông, khâu đầu tư phát triển hạ tầng được coi là điểm nhấn, tạo tiền đề cho sự phát triển của ngành. Việc phát triển hạ tầng đồng nghĩa với việc các DN viễn thông phải hợp tác dùng chung hạ tầng, ngầm hóa mạng viễn thông và thực hiện xã hội hóa trong xây dựng hạ tầng viễn thông. Với lĩnh vực công nghiệp CNTT sẽ chú trọng nâng cao giá trị gia tăng trong sản phẩm, đẩy mạnh nội địa hóa sản phẩm... Bộ cũng sẽ đưa đề xuất hình thành quỹ kích cầu cho công nghiệp CNTT, đưa ra biện pháp hỗ trợ DN trong việc phát triển sản phẩm, tìm kiếm thị trường, mở rộng, quảng bá sản phẩm. Mặt khác, Bộ tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý nhằm ưu đãi tối đa các DN công nghiệp CNTT.
Theo Hà Nội mới