Chủ nhật, 28/07/2024

Tìm kiếm

Giới thiệu chung
Đại hội VAIP IX
Hoạt động hội
Tin tức ICT
Môi trường - Chính sách
Doanh nghiệp - Hội viên
Sản phẩm - Công nghệ
Giao thương
Nguồn lực cho CNTT
Phần mềm nguồn mở
Xã hội ICT
Gặp gỡ ICT đầu xuân
Hội thảo HT-PT
ICT Caravan 2023
Lịch sử tin học Việt Nam
Chương trình hành động
Hội viên
ICT Tennis
Kỷ yếu 30 năm OLP
Liên hệ
  Cập nhật: 15/08/2008
Chọn GSM đem lại thành công cho Việt Nam

15 năm sau khi khai trương mạng di động đầu tiên, từ chỗ là thứ xa xỉ, dịch vụ di động đã trở nên rất quen thuộc với người người dân VN.

Nhân dịp kỷ niệm 15 năm khai trương mạng di động đầu tiên ở Việt Nam, Báo BĐVN đã phỏng vấn ông Mai Liêm Trực, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện và Tổng giám đốc VNPT, một trong những nhân vật chủ chốt trong việc quyết định lựa chọn công nghệ GSM và đưa ra chiến lược phát triển cho di động Việt Nam để đem đến những thành công như ngày hôm nay.

Ngày 3/7/1993, chúng ta đã khai trương dịch vụ di động công nghệ GSM đầu tiên ở Hà Nội. Vậy lý do nào để ta lựa chọn đưa dịch vụ thông tin di động vào Việt Nam ở thời điểm này?

Sau 3 năm đất nước khởi động và bắt đầu quá trình đổi mới thì ngành BCVT Việt Nam đã có những bước đột phá bằng việc mở liên lạc viễn thông quốc tế qua hệ thống thông tin vệ tinh mặt đất với hai Trung tâm đặt Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, sau đó là Đà Nẵng. Đến năm 1991, chúng ta đã đưa hệ thống tổng đài điện tử vào khai thác tại một loạt thành phố là Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Nam Định… Đây là thời kỳ mà ngành BCVT hoàn thiện việc số hóa bằng các tổng đài điện tử và truyền dẫn bằng hệ thống viba số. Thời kỳ này, điện thoại và Fax hoàn toàn tự động trong nước và quốc tế thay thế dần cho dịch vụ điện báo và Telex. Những năm 1990 và 1991 là giai đoạn chuẩn bị cho ngành BCVT bước vào thời kỳ tăng tốc. Đầu tư nước ngoài phát triển mạnh. Nhu cầu sử dụng dịch vụ thông tin di động của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài bắt đầu xuất hiện, nhất là thị trường TP. Hồ Chí Minh. Lúc đó, Tổng cục Bưu điện bắt đầu nghiên cứu đưa thông tin di động vào Việt Nam và tiếp xúc với một số đối tác để chuẩn bị triển khai như SingTel, Acatel, Siemens, Ericsson…

Từ 1991 đến 1993 đã có sự xuất hiện của công nghệ di động tế bào công nghệ số GSM, được triển khai nhiều tại châu Âu. Tuy nhiên, công nghệ này còn đang trong quá trình hoàn thiện nên chưa được thương mại hoá rộng rãi. Tổng cục Bưu điện đứng trước tình huống nhu cầu thông tin di động đã xuất hiện nhưng lựa chọn công nghệ nào phù hợp với Việt Nam? Lúc này, thế giới đã đưa vào sử dụng các hệ thống di động tế bào khoảng 20 năm nhưng hầu hết dùng công nghệ analog. Cũng xuất hiện ý kiến đề nghị lựa chọn công nghệ analog cho Việt Nam để đáp ứng nhu cầu của thị trường lúc bấy giờ. Nhưng Tổng cục trưởng Tổng cục Bưu điện Đặng Văn Thân và lãnh đạo ngành BCVT đã quyết định chọn công nghệ số để thẳng tiến tới công nghệ hiện đại và đồng bộ mạng lưới từ nội hạt, truyền dẫn đều sử dụng công nghệ số. Vì vậy, công nghệ thông tin di động được chọn lựa là công nghệ số GSM. Mặc dù quyết tâm đi theo con đường công nghệ số GSM, song thực tiễn lúc đó rất khó khăn do công nghệ này đang gặp khó khăn trong thương mại hóa, thiết bị đầu cuối chưa hoàn thiện và giá cực kỳ đắt đỏ, tới hàng nghìn USD/chiếc.

Năm 1992, Tổng cục Bưu điện quyết định đàm phán với các đối tác để chuẩn bị đưa công nghệ GSM triển khai trên phạm vi toàn quốc. Tháng 7/1993, Tổng cục Bưu điện đã lựa chọn Acaltel là nhà sản xuất thiết bị để triển khai mạng di động đầu tiên tại Hà Nội. Sau đó, cuối năm 1993 và đầu năm 1994, mạng GSM được tiếp tục mở rộng ở TP. Hồ Chí Minh với đối tác Ericsson. Đến năm 1994, mạng GSM được thiết lập và chính thức cung cấp dịch vụ tại một số thành phố lớn. Công nghệ này cũng được lựa chọn dựa trên tiêu chuẩn của châu Âu và ITU để đưa vào thị trường Việt Nam. Sở dĩ Tổng cục Bưu điện chọn 2 nhà cung cấp thiết bị Alcatel và Ericsson nhằm tạo sự cạnh tranh nhất định về giá cả, chất lượng và các dịch vụ sau bán hàng.

Ông Mai Liêm Trực, nguyên Tổng Cục trưởng TC Bưu điện - TGĐ VNPT   

Chúng ta đã quyết tâm đưa GSM vào Việt Nam, nhưng vì sao thời điểm đó, tại TP Hồ Chí Minh vẫn triển khai mạng Call-Link sử dụng cộng nghệ analog?

Như tôi nói ở trên, vào thời điểm năm 1992, đã có nhiều ý kiến và nhiều đối tác muốn đưa công nghệ analog vào Việt Nam và cụ thể là thị trường TP. HCM. Về mặt chiến lược, lãnh đạo ngành BCVT xác định sẽ đi thẳng vào công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, do nhu cầu cấp bách tại thị trường nên Bưu điện TP.HCM có đề xuất tạm sử dụng một hệ thống di động analog gọi là Call-Link. Tổng cục Bưu điện đồng ý cho triển khai nhưng chỉ hạn chế ở địa bàn TP.HCM và sẽ thay thế bằng GSM sau này. 

Thưa ông, lúc đó có đề xuất chọn công nghệ di động vệ tinh và thực tế là công nghệ vệ tinh cũng có nhiều ưu thế, vậy tại sao chúng ta vẫn chọn GSM?

Đúng là thời điểm đó, một số người nêu ý kiến nên chọn công nghệ di động vệ tinh toàn cầu với ưu điểm là đi khắp nơi trên thế giới đều có thể sử dụng được cho dù thiết bị đầu cuối to hơn các công nghệ khác một chút. Thời kỳ này, công nghệ di động vệ tinh được đầu tư mạnh ở Mỹ và châu Âu như các tập đoàn Iridium Global Star... Các nhà cung cấp dịch vụ đã bắn khoảng hơn 60 quả vệ tinh (tương tự như BTS) lên quỹ đạo vệ tinh cách trái đất khoảng 10.000 km (vệ tinh tầm thấp) để đảm bảo sự chuyển vùng cho các thuê bao di động. Phải thừa nhận công nghệ di động vệ tinh lúc đó có rất nhiều ưu thế và Tổng cục Bưu điện cũng đã nghiên cứu đến công nghệ này. Tuy nhiên, ngoài các yếu tố về thị trường, công nghệ, thiết bị đầu cuối thì vấn đề được đưa ra cân nhắc là nếu chọn mạng GSM, chúng ta sẽ quản lý tốt hơn là triển khai mạng di động vệ tinh. Vì vậy, quan điểm của Tổng cục Bưu điện là vẫn phải xây dựng mạng di động thông tin mặt đất GSM. Sau này, chính sự thận trọng đã giúp chúng ta tránh được rủi ro khi công nghệ di động vệ tinh thất bại. Trong khi đó, giá thành thiết bị mạng và thiết bị đầu cuối giảm đi rất nhanh nên mạng GSM thương mại hóa và phát triển mạnh trên toàn cầu. Bài học rút ra là không phải vấn đề công nghệ mà chính thị trường sẽ quyết định sự thành công cho nhà khai thác.

Ông có thể cho biết vì sao ban đầu, Bưu điện Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh được lựa chọn triển khai mạng di động đầu tiên, nhưng sau đó lại thành lập MobiFone?

Tổng cục Bưu điện chủ trương phải tạo sự quản lý thống nhất mạng GSM trên phạm vi toàn quốc nên đã thành lập MobiFone. Việc thành lập MobiFone sẽ thúc đẩy phát triển mạnh mạng GSM và năm 1995, MobiFone ra đời. Trước đó, Tổng cục Bưu điện cũng thành lập Công ty Viễn thông quốc tế (VTI) để quản lý thống nhất mạng viễn thông quốc tế.

Lý do chúng ta lựa chọn Comvik để hợp tác xây dựng mạng MobiFone là gì, thưa ông?

Thời kỳ đầu phát triển viễn thông Việt Nam, chúng ta rất hạn chế vốn. Đến năm 1989 mới có 1,7 triệu USD để mua tổng đài điện tử nên phải mua thiết bị trả chậm và hợp tác BCC để có vốn đầu tư. Song Tổng cục Bưu điện cho rằng cần hạn chế vay trả chậm vì sẽ gặp bất lợi về giá. Qua thành công của BCC triển khai cung cấp dịch vụ điện thoại quốc tế với Tesltra, chúng ta tiếp tục đàm phán BCC với Comvik vì quan hệ Việt Nam - Thuỵ Điển cũng gắn bó đặc biệt. Hơn nữa, đây là nước sản xuất thiết bị mạng di động có công nghệ hiện đại với đại diện tiêu biểu là Ericsson và nhà khai thác nhiều kinh nghiệm Comvik. Việc hợp tác với Comvik từ năm 1996 đã giúp cho MobiFone có vốn và công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý hiện đại. Chính nhờ những yếu tố này, mà hiện MobiFone vẫn là mạng di động có chất lượng và các chương trình marketing tốt nhất.

Thưa ông, thời kỳ đó nhu cầu sử dụng dịch vụ di động chưa nhiều và chúng ta đã có MobiFone nhưng cơ sở nào để thành lập tiếp mạng VinaPhone?

 

Tất nhiên, cũng có ý kiến cho rằng tại sao phải thành lập mạng Vinaphone khi chúng ta đã có MobiFone. Lúc mới thành lập, MobiFone trực thuộc Tổng cục Bưu điện và nằm ngoài VNPT. Khi thành lập các Tổng công ty 91, Tổng cục Bưu điện chủ trương đưa MobiFone vào VNPT cùng với các công ty trong khối công nghiệp. Lúc đó, MobiFone bắt đầu hợp tác với Comvik và vẫn phát triển tốt, nhưng Tổng cục Bưu điện và VNPT quyết định xây dựng mạng di động thứ 2 là Vinaphone, hoàn toàn do phía Việt Nam quản lý và xây dựng. Sở dĩ đưa ra quyết định này vì lãnh đạo ngành BCVT nhìn nhận chắc chắn nhu cầu dịch vụ thông tin di động tại Việt Nam sẽ bùng nổ, nhưng Comvik cam kết chỉ đầu tư 130 triệu USD cho MobiFone trong vòng 10 năm. Mức đầu tư này rất hạn chế và không thể đáp ứng sự phát triển của thông tin di động Việt Nam. Quan điểm của lãnh đạo ngành là cần có mạng di động thứ hai để giành thế chủ động và không thể duy trì độc quyền trong kinh doanh ở một thị trường được dự đoán là bùng nổ. Hơn nữa, nếu không có mạng di động thứ hai sẽ rất dễ bị rủi ro khi không đàm phán được với đối tác trong quá trình phát triển MobiFone. Năm 1995, tôi chuyển từ Tổng cục Bưu điện sang làm Tổng giám đốc VNPT. Khi đó, việc đàm phán với đối tác để tăng đầu tư cho MobiFone 50 triệu USD mất vài tháng trời vẫn chưa xong. VNPT đang trong giai đoạn tăng tốc giai đoạn I nên cũng có nguồn ngoại tệ để xây dựng mạng di động thứ hai của riêng mình. Với quyết tâm đó, tháng 6 năm 1996, chúng ta đã khai trương mạng VinaPhone, giành được thế chủ động và tạo sự cạnh tranh nhất định để phát triển dịch vụ thông tin di động tại Việt Nam. Thực tế triển khai đã chứng minh được quyết định đó là đúng đắn. Động thái này giúp cho MobiFone được đối tác tăng vốn đầu tư lên 230 triệu USD cho mạng lưới.   

Năm 1994, chúng ta đã có mạng di động nhưng vẫn xây dựng mạng nhắn tin, xin ông cho biết lý do?

Thời điểm này dịch vụ thông tin di động rất hạn chế vì đắt đỏ về cước và thiết bị đầu cuối. Trong khi dịch vụ nhắn tin giá rẻ hơn vì vùng phủ sóng xa và đầu tư ít hơn nhiều so với mạng di động. Nhiều nước cũng phát triển mạng nhắn tin. Sau này giá dịch vụ thông tin di động và thiết bị đầu cuối giảm mạnh, dịch vụ nhắn tin không phát triển được nên VNPT đã “khai tử” mạng này.

Thưa ông, đấu tranh cho mở Internet là quá trình đầy gian nan, vậy việc cho mở di động có khó khăn như Internet hay không?

Cũng giống như quá trình thuyết phục cho mở Internet, hay dịch vụ fax…, việc quyết định cho mở dịch vụ thông tin di động cũng có những lo ngại trong công tác quản lý. Tuy nhiên, mỗi tình huống và giai đoạn khác nhau sẽ có mối lo lắng khác nhau. Chúng ta có những thuận lợi vì qua thời kỳ mở cửa dịch vụ viễn thông đã có chút kinh nghiệm về nghiệp vụ quản lý, công nghệ, dịch vụ và giá cả. Vấn đề quản lý luôn được đặt ra đối với tất cả quốc gia, đặc biệt là Việt Nam. Trước đây, chúng ta mở từ cuộc gọi nhân công đi quốc tế sang tự động rồi sau đó là mở dịch vụ fax tự động cũng là quá trình trăn trở giữa yêu cầu phát triển của đất nước và thực tiễn quản lý. Thậm chí, có ý kiến của các đồng chí lãnh đạo cấp cao yêu cầu phải thận trọng khi mở các dịch vụ viễn thông trong đó có di động. Thế nhưng, may mắn là khi chúng ta làm việc với các cơ quan quản lý về an toàn an ninh thông tin đã đạt được sự thống nhất. Đồng thời, báo cáo với lãnh đạo cấp cao là khi dịch vụ hiện đại toàn cầu hóa và di động khắp nơi thì cách thức quản lý về an toàn an ninh thông tin cũng phải thay đổi. Chúng tôi làm việc với các vị lãnh đạo quản lý cấp cao về an toàn an ninh thông tin và thống nhất quan điểm rằng: “Ngành Bưu điện cứ phát triển, còn các cơ quan quản lý sẽ cố gắng thay đổi cơ chế chính sách và cách thức quản lý phù hợp chứ không vì khó quản lý mà không cho dịch vụ phát triển”. Chính vì quan điểm như vậy nên chúng ta đã tạo được cơ sở hạ tầng viễn thông phát triển rất nhanh, những lo lắng trong quản lý đã không cản trở quá trình phát triển của dịch vụ thông tin di động ở Việt Nam.    

Sau khi mạng MobiFone và VinaPhone ra đời, quan điểm quản lý nhà nước ra sao để tiếp tục đưa nhiều mạng di động vào để cạnh tranh?

Năm 1995, khi tách quản lý nhà nước và kinh doanh thì quyền chủ động trong việc chọn công nghệ thiết bị thuộc về các doanh nghiệp. Cơ quan quản lý nhà nước chỉ định hướng về công nghệ và quản lý phổ tần số, giá cước dịch vụ cùng thể lệ khai thác dịch vụ. Vì vậy, các cơ chế chính sách từ thời kỳ đó đã chuẩn bị cho cạnh tranh và mở cửa thị trường. Bản thân Tổng cục Bưu điện rất quyết tâm tạo ra môi trường cạnh tranh trong lĩnh vực BCVT. Cho đến thời điểm này, chính sách cho cạnh tranh và mở cửa thị trường đã tác động mạnh mẽ đến dịch vụ di động với giá cước ngày càng hạ để cho nhiều người dân Việt Nam có thể sử dụng dịch vụ.

Xin cảm ơn ông!

Theo Ictnews

  Trang trước    | Về đầu trang
Bình luận - Comment (FB):
tin hoc doi song
Công ty cổ phần Minh Việt
hanoi
Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam
automation
technoaid
Dự báo thời tiết
  Powered and Designed by MinhViet Technology Group
HỘI TIN HỌC VIỆT NAM
Người chịu trách nhiệm nội dung: Ông Nguyễn Long - Tổng Thư Ký - Hội Tin Học Việt Nam
Head office: 6th floor, 14 Tran Hung Dao Str., Hanoi,Vietnam - Tel:84-24-38211725 - Fax:84-24-38211708 - Email: office@vaip.vn
Copyright 2003-2006 by VAIP. All rights reserved
Designed by InteCom (MinhViet JSC) - Powered by MVC-Web CMS 2.0