Thứ sáu, 26/07/2024

Tìm kiếm

Giới thiệu chung
Đại hội VAIP IX
Hoạt động hội
Tin tức ICT
Môi trường - Chính sách
Doanh nghiệp - Hội viên
Sản phẩm - Công nghệ
Giao thương
Nguồn lực cho CNTT
Phần mềm nguồn mở
Xã hội ICT
Gặp gỡ ICT đầu xuân
Hội thảo HT-PT
ICT Caravan 2023
Lịch sử tin học Việt Nam
Chương trình hành động
Hội viên
ICT Tennis
Kỷ yếu 30 năm OLP
Liên hệ
  Cập nhật: 07/08/2008
“Ưu tiên ứng dụng CNTT trong khối cơ quan quản lý nhà nước”

 
Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp cho biết, trong chiến lược phát triển thông tin và truyền thông của Bộ hiện nay, lĩnh vực được đặc biệt ưu tiên là đẩy mạnh ứng dụng CNTT, đặc biệt là ứng dụng CNTT trong khối cơ quan quản lý nhà nước.

Trong hơn ba tiếng đồng hồ của buổi giao lưu trực tuyến trên trang web của bộ với chủ đề “Chiến lược phát triển Thông tin và Truyền thông” sáng nay, gần 90 câu hỏi xoay quanh các vấn đề về báo chí, xuất bản, bưu chính, viễn thông, CNTT đã được Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông Lê Doãn Hợp trả lời. Đây là cuộc trả lời trực tuyến thứ 6 của Bộ Thông tin và Truyền thông trong năm 2008. Chúng tôi xin tóm lược một số nội dung đáng quan tâm của buổi giao lưu trực tuyến này.


Bốn nguyên nhân chậm ứng dụng CNTT trong quản lý nhà nước


Bộ trưởng Lê Doãn Hợp cho rằng Bộ ưu tiên ứng dụng CNTT trong khối cơ quan quản lý nhà nước nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý, cung cấp tốt hơn các dịch vụ của Nhà nước tới người dân và doanh nghiệp, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận, việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý nhà nước còn nhiều lúng túng, bất cập do những nguyên nhân chính sau:


Một là, nhận thức về vai trò của công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước vẫn còn rất hạn chế, ứng dụng công nghệ thông tin chưa thực sự kết hợp chặt chẽ với cải tiến quy trình làm việc, với thiết lập phong cách làm việc dựa trên máy tính, dựa trên ứng dụng của hệ thống thông tin và mạng máy tính.


Hai là, đầu tư cho ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước còn nhỏ giọt, không đầy đủ.


Ba là, mặc dù trong thời gian qua môi trường pháp lý cho ứng dụng công nghệ thông tin đã được cải thiện, tuy nhiên môi trường để quản lý đầu tư cho ứng dụng công nghệ thông tin vẫn còn nhiều vướng mắc.


Bốn là, nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin tại các cơ quan nhà nước nhìn chung còn thiếu, với chất lượng không cao.


Một nguyên nhân được bạn Trần Ngọc Phước đưa ra tại buổi giao lưu đó là do kiến thức về CNTT của công nhân viên chức còn rất kém nên việc ứng dụng CNTT vào cơ quan nhà nước không hiệu quả.


Về vấn đề này, Bộ trưởng cho rằng yêu cầu cơ bản về kiến thức CNTT đối với cán bộ công chức là kỹ năng sử dụng máy tính, tin học văn phòng (gọi tắt là tin học cơ bản), ngoài ra còn yêu cầu thói quen sử dụng các chương trình ứng dụng CNTT chuyên ngành theo các dự án ứng dụng CNTT của các Cơ quan. Theo quy định của Bộ Nội vụ thì các cán bộ công chức từ khi dự tuyển vào đến các giai đoạn nâng ngạch, điều động … đều được xem xét, đánh giá lại kỹ năng tin học cơ bản. Tuy nhiên, nhiều nơi còn xem tiêu chuẩn có kỹ năng tin học văn phòng còn là hình thức nên việc khai thác các ứng dụng CNTT còn rất hạn chế, đặc biệt khi chúng ta đang đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước, phục vụ cải cách hành chính sâu rộng.


“Ứng dụng CNTT phải được làm từng bước, phải đúng chỗ, đúng lúc, tháo gỡ ngay vấn đề và từ đó từng bước nâng dần nhận thức, tạo nhu cầu, thói quen sử dụng chương trình phần mềm, dần cải thiện được hiệu quả công việc, đồng thời là hiệu quả đầu tư các ứng dụng CNTT”, Bộ trưởng nhấn mạnh.


Hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2009-2010, trong đó cũng xác định rõ trách nhiệm của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc ứng dụng CNTT trong giai đoạn tới.


Các doanh nghiệp không được cấp phép 3G sẽ tồn tại thế nào?


Theo kinh nghiệm quốc tế, cấp phép 3G theo ba hình thức chính: đấu thầu, thi tuyển, hoặc kết hợp cả hai hình thức trên. Đối với Việt Nam thì tất cả 7 nhà khai thác dịch vụ thông tin di động đều là doanh nghiệp Nhà nước, vì vậy Bộ tiến hành tổ chức thi tuyển cấp phép 3G.


Việc tổ chức thi tuyển cấp phép 3G là hình thức cấp phép viễn thông lần đầu tiên áp dụng cho Việt Nam (chưa có tiền lệ). Bộ đã hoàn thiện xây dựng hồ sơ thi tuyển trên cơ sở công khai tham vấn các nội dung thi tuyển với các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý viễn thông trong và ngoài nước.


Một trong các việc để bảo đảm sự thành công của thi tuyển là nội dung liên quan đến cam kết đầu tư triển khai cung cấp dịch vụ 3G của các doanh nghiệp, các nội dung cam kết phải được được đảm bảo bằng các cơ chế xử phạt tài chính. Hiện Bộ Thông tin và Truyền thông đang cùng các Bộ ngành khác xây dựng trình Chính phủ các cơ chế tài chính này.


Bộ dự định phát hành Hồ sơ thi tuyển trong tháng 8, các doanh nghiệp có hai tháng chuẩn bị làm đề án. Đến tháng 11, Bộ chấm điểm Hồ sơ thi tuyển của các doanh nghiệp và báo cáo Thủ tướng Chính phủ vào tháng 12 rồi mới cấp giấy phép 3G cho các doanh nghiệp trúng tuyển.


Tuy nhiên, đợt cấp phép lần này áp dụng đối với băng tần số 1900-2100 MHZ. Tại một số băng tần số khác cũng có thể triển khai được dịch vụ 3G như băng tần 450 MHz, 800 MHz, 900 MHz.


Với băng tần 1900-2100 MHz, Bộ đã nghiên cứu và ban hành quy hoạch tần số vô tuyến điện, trong đó băng tần 3G được chia tối ưu nhất là cho 4 nhà khai thác. Vì vậy, chỉ có 4 DN có thể trúng tuyển. Tuy nhiên, DN không trúng tuyển và đang cung cấp dịch vụ 2G vẫn có thể hợp tác với DN được cấp phép 3G để cung cấp dịch vụ 3G hoặc cung cấp dịch vụ 3G trên dải tần số khác như 450, 800, 900 MHz mà mình đang khai thác. Nếu không thành công, cơ chế thị trường được áp dụng, DN sẽ bị sáp nhập hoặc phá sản.


Đầu năm 2009, xóa bỏ cước gọi liên huyện


Bộ TT-TT dự báo trong thời gian tới thông tin và truyền thông sẽ tiếp tục phát triển mạnh:
Đến năm 2010, 100% số xã có điểm phục vụ bưu chính hoạt động. Dự báo đến hết năm 2010, mật độ điện thoại trung bình (gồm cả cố định và di động) sẽ đạt trên 90%; Tỷ lệ người sử dụng Internet đạt trên 30%.

Công nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm vào khoảng 20%/năm.

Đến năm 2010, hoàn thành cơ bản việc phổ cập các phương tiện thu thanh, truyền hình đến mỗi gia đình.

98% số xã có báo Đảng đến trong ngày.


Bạn đọc Nguyễn Văn Mạnh ở Hà Nam phản ánh, hiện nay, một thực tế đang tồn tại là người dân tại các tỉnh, thành không thuộc các thành phố cấp I đang bị phân biệt trong việc sử dụng các dịch vụ viễn thông liên quan đến việc tính cước viễn thông nội hạt so với người sử dụng dịch vụ viễn thông tại các thành phố như Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Cần Thơ. Theo đó, họ sẽ bị tính cước cuộc gọi liên huyện với mức giá cao hơn gấp 2 đến 3 lần so với các thành phố cấp I, vốn đang được sử dụng chỉ với một mức cước nội hạt (mà không phụ thuộc vào khoảng cách địa lý là theo Quận/huyện).


Bộ trưởng Lê Doãn Hợp thừa nhận điều này đã tạo ra sự bắt bình đẳng trong việc sử dụng dịch vụ. Trong khi khả năng thanh toán của dân cư thành phố cao hơn thì lại được sử dụng mức giá cước trong nội tỉnh thấp, ngược lại dân cư các tỉnh, thành phố khác có khả năng thanh toán thấp thì lại chịu mức cước liên lạc nội tỉnh cao.


Do vậy, hiện nay Bộ Thông tin và Truyền thông đang xây dựng đề án điều chỉnh cước nội hạt nội tỉnh trình Thủ tướng Chính phủ. Theo đề án, Bộ sẽ thống nhất cước nội hạt nội tỉnh, cước liên lạc giữa các huyện trong tỉnh trên toàn quốc sẽ được áp dụng như cước nội hạt trong thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... Dự kiến, đề án sẽ được triển khai áp dụng vào đầu năm 2009.


Được biết, sắp tới các doanh nghiệp viễn thông sẽ tăng số điện thoại cố định tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh từ 7 lên 8 số; các tỉnh từ 6 lên 7 số. Trả lời thắc mắc của bạn Lê Phương Lan, Hà Nội về việc tại sao các doanh nghiệp kinh doanh điện thoại cố định không cấp cho hẳn đầu số mới (như các doanh nghiệp di động) hoặc tăng từ 6 hay 7 số lên 10 số để tránh tình trạng mấy năm lại tăng một lần, Bộ trưởng cho biết, việc kinh doanh điện thoại cố định vốn trước đây chỉ do một mình VNPT đảm nhiệm, đương nhiên kho số cố định dành cho VNPT cũng lớn hơn nhiều doanh nghiệp khác. Nếu không mở rộng độ dài thuê bao cố định thì sẽ không đủ tài nguyên phân bổ cho các doanh nghiệp mới tham gia thị trường như Viettel, EVNT, FPT, VTC...


Tuy nhiên không thể tăng một cách bừa bãi vì phải phù hợp với quy mô dân số, phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng các yêu cầu về kỹ thuật của hệ thống thiết bị viễn thông. Ví dụ quy mô dân số của Hà Nội mở rộng và TP Hồ Chí Minh hiện khoảng hơn 6 triệu người, với việc nâng độ dài số thuê bao lên 8 chữ số về mặt lý thuyết tương đương với 100 triệu số thuê bao.


Các tỉnh còn lại chưa có tỉnh nào có quy mô dân số trên 4 triệu với độ dài số thuê bao là 7 chữ số về mặt lý thuyết tương đương với 10 triệu thuê bao. Như vậy sau lần đổi số này mỗi doanh nghiệp sẽ được cấp một đầu số riêng, đáp ứng được nhu cầu trong thời gian dài nữa mà chưa cần phải đổi số điện thoại cố định, theo các công nghệ hiện nay.
Theo Nhân dân
  Trang trước    | Về đầu trang
Bình luận - Comment (FB):
tin hoc doi song
Công ty cổ phần Minh Việt
hanoi
Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam
automation
technoaid
Dự báo thời tiết
  Powered and Designed by MinhViet Technology Group
HỘI TIN HỌC VIỆT NAM
Người chịu trách nhiệm nội dung: Ông Nguyễn Long - Tổng Thư Ký - Hội Tin Học Việt Nam
Head office: 6th floor, 14 Tran Hung Dao Str., Hanoi,Vietnam - Tel:84-24-38211725 - Fax:84-24-38211708 - Email: office@vaip.vn
Copyright 2003-2006 by VAIP. All rights reserved
Designed by InteCom (MinhViet JSC) - Powered by MVC-Web CMS 2.0