Đã có nhiều bài báo, nhiều ý kiến chuyên gia phân tích về sự kiện nêu trên với những đánh giá tích cực.
Trước hết, việc xác thực và công bố chính thức số lượng thuê bao của các mạng di động sẽ góp phần minh bạch hóa thị trường này, chấm dứt cuộc tranh cãi không dứt suốt năm qua về chủ đề mạng nào là số 1 trên thị trường di động, đồng thời cũng làm rõ được những thông tin không thống nhất lâu nay về thế nào là "thuê bao ảo", "thuê bao thực".
Việc Bộ công bố số lượng thuê bao cũng giúp các doanh nghiệp nhận rõ vị trí, thực lực của mình trên thị trường, từ đó đề ra chiến lược và giải pháp phát triển phù hợp đúng đắn trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường di động. Người tiêu dùng cũng nhờ đó mà có thể đánh giá đúng về thực lực, uy tín của doanh nghiệp trong quá trình lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ.
Đối với Bộ Thông tin và Truyền thông, việc đo kiểm và công bố chính thức số liệu thuê bao di động một mặt khẳng định vai trò và chức năng quản lý nhà nước của Bộ, mặt khác, cũng khiến cho những con số về thuê bao điện thoại trong các báo cáo, thống kê của Bộ trở nên thống nhất, rõ ràng và đáng tin cậy hơn đối với các bộ ngành khác và đối với xã hội. Những năm trước, các số liệu thống kê về thuê bao điện thoại trong báo cáo của cơ quan quản lý nhà nước chủ yếu dựa trên nguồn số liệu tự công bố của các doanh nghiệp, chưa được kiểm chứng độc lập. Do nhiều nguyên nhân như: cách tính thuê bao khác nhau, bệnh thành tích hoặc muốn "khai vống" số liệu thuê bao để khẳng định thương hiệu trong cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng mà số liệu của các doanh nghiệp đưa ra không thống nhất, không đủ độ tin cậy, đôi lúc khiến cho cơ quan quản lý nhà nước lúng túng trong thống kê, đồng thời cũng khiến cho dư luận nghi ngờ, đặt dấu hỏi. Nay với việc đo kiểm nghiêm túc của Bộ, các số liệu công bố thực sự mang tính trung lập, khách quan và đáng tin cậy.
Với số liệu trên 48 triệu thuê bao di động đã được công bố (trong đó, Viettel đứng số 1 với 19.426.006 thuê bao, tiếp đó là Mobifone với 13.341.217 thuê bao và Vinafone với 12.108.310 thuê bao và S-fone với 3.148.252 thuê bao), có thể khẳng định, thị trường di động Việt Nam đã sắp bước qua giai đoạn phát triển bùng nổ và gần đạt ngưỡng bão hòa (ngưỡng 60% dân số dùng điện thoại di động). Tất nhiên con số nêu trên cũng chỉ tương đối bởi như thế không có nghĩa là chúng ta đã có 48 triệu người dùng di động mà cần tính đến tình trạng một người dùng nhiều sim (một người đứng tên nhiều thuê bao) hiện nay do chính sách khuyến mãi quá tập trung vào bán sim của các nhà cung cấp dịch vụ. Nhưng nếu trừ đi tỷ lệ một người dùng nhiều sim (theo các chuyên gia thì khoảng 5% tổng số thuê bao) thì con số nêu trên cũng cho thấy một thực tế: cuộc chiến giành miếng bánh thị phần di động đã gần đến hồi ngã ngũ. Các "ông lớn" đã xác lập được chỗ đứng khá vững chắc trên thị trường và cơ hội cho những người "chậm chân" hay đến sau trong thị trường béo bở này là rất nhỏ. Thuê bao di động vẫn tiếp tục phát triển nhưng thời kỳ bùng nổ có lẽ đã sắp qua.
Điều đó cũng có nghĩa là các doanh nghiệp chiếm thị phần không chế cần có những điều chỉnh trong chiến lược kinh doanh của mình bằng các chính sách phù hợp. Thay vì tập trung toàn lực vào việc phát triển thuê bao mới (bán sim) bằng chính sách siêu khuyến mãi không tưởng, các doanh nghiệp cần chuyển hướng tập trung vào việc chăm sóc và giữ số lượng khách hàng đã có, khách hàng trung thành. Đó cũng chính là khuyến cáo của Bộ TT&TT được các doanh nghiệp hưởng ứng khá tích cực.
Số lượng thuê bao là yếu tố quan trọng hàng đầu nhưng không phải là yếu tố duy nhất làm nên uy tín, thương hiệu, sức mạnh của một mạng di động. Còn có các yếu tố không kém phần quan trọng khác: chất lượng mạng lưới, vùng phủ sóng, chất lượng dịch vụ, công tác chăm sóc khách hàng… Được biết, hiện nay, các cơ quan chức năng của Bộ TT&TT đang tiếp tục việc đo kiểm chất lượng các mạng di động để công bố trong thời gian tới nhằm tăng cường hơn nữa vai trò quản lý nhà nước, thúc đẩy thị trường di động phát triển lành mạnh và bền vững.
Theo Ictnews